Thursday, March 5, 2009

Ải Nam Quan, Thác Bản Giốc Mất Rồi...

Lê Khả Phiêu Là Người Bán Ải Nam Quan?

Cựu TBT Đảng CSVN Bán Nước Để Có Tiền Sống Như Tư Bản?

Ngô Hoàng Minh

Mạc Ðăng Dung đã được Việt sử ghi như một kẻ "quỳ phục nhà Minh, hai tay dâng đất xin hàng". Sự kiện Mạc Ðăng Dung lên Ải Nam Quan để trói mình, dâng đất cho quan lại Tàu đều đã được ghi nhận như một vết nhơ trong lịch sử hồi thế kỷ thứ 16.Sách Việt Nam Sử Lược viết: "Ðến ngày 11 tháng 5 Canh Tí (1540) Mạc Ðăng Dung thấy quân Minh sửa soạn sang đánh, sợ hãi quá chừng bèn để Mạc Phúc Hải ở lại giữ nước, rồi cùng bọn Vũ Như Quế cả thảy hơn 40 người, tự trói mình ra hàng, sang chịu tội ở cửa Nam Quan, lạy phục xuống đất để nộp sổ sách điền thổ và sổ dân đinh, lại xin dâng 5 động: là động Tế Phú, động Kim Lạc, động Cổ Xung, động Liễu Cát, động La Phù và đất Khâm Châu. Lại đem vàng bạc dâng riêng cho nhà Minh". Riêng Khâm Ðịnh Việt Sử Thông Giám thì " Vào năm 1541, Mạc Ðăng Dung cùng cháu là Mạc Văn Minh và bày tôi là bọn Nguyễn Như Quế hơn 40 người đã tự buộc dây thừng vào cổ, đi chân đất qua cửa Nam Quan quỳ lạy, phủ phục trước quân Minh, khúm núm dâng biểu xin hàng, nộp trình sổ sách đất đai cho quân Tàu để mong nắm giữ được vương quyền và thủ lợi riêng tư".

Vết nhơ đó, lịch sử phải ghi một lần nữa, nhưng lần này, tủi nhục và đau đớn hơn cho giòng dõi Việt: " Cuối thế kỷ thứ 20, Lê Khả Phiêu, Tổng Bí Thư đời thứ 6 của đảng CSVN cùng bày tôi các cấp như Lê Công Phụng, Vũ Khoan....., vì sợ hải bị mất quyền lực, vì đặt quyền lợi Ðảng lên trên quyền lợi Dân Tộc và Ðất Nước, đã cam tâm ký Hiệp Ðịnh Về Biên Giới với Trung Quốc. Hiệp Ðịnh này nhường đứt hơn 720 cây số đường biên giới phía Bắc, nhường mất nhiều di tích lịch sử, đất đai, làng mạc và cả dân cư Việt cho người Trung Quốc. Trong số di tích lịch sử bị mất, có Ải Nam Quan. Ðây là nơi Nguyễn Trãi đã từ biệt cha Nguyễn Phi Khanh, trở về phò Lê Lợi diệt Minh, nơi tướng nước Tàu Liễu Thăng đã bị quân Nam phục binh chém rơi đầu, nơi Mạc Ðăng Dung từng lê lết trói mình, qùy lạy xin dâng đất. Ải Nam Quan của Nước Nam đã chính thức xoá tên từ tháng 12 năm 1999."

Cho đến giờ dư luận trong và ngoài nước vẫn chưa tìm ra nguyên do sâu xa và bí ẩn của việc bán một phần cơ đồ nước Việt cho Trung Quốc. Một số tin cho là có thể Ðảng CSVN bị Trung Quốc lừa nên phải ký Hiệp Ðịnh, hoặc chi tiết hơn thì cáo giác họ Lê đã bị trúng độc kế mỹ nhân nên phải ký nếu không muốn bị đốt cháy. Có tin là Trung Quốc hứa hẹn cho Việt Nam 2 tỷ dollars để đổi lấy các nhượng bộ trên, hoặc CSVN phải bán đất để trả nợ Trung Quốc vì thiếu từ thời chiến tranh chống Mỹ.... Những dư luận này cho đến nay vẫn không đủ tính thuyết phục và bằng chứng để biện minh cho những nhượng bộ quá lớn từ phiá Hà Nội bắt đầu từ thời Tổng bí thư Lê Khả Phiêu. CSVN trong thời kỳ chiến tranh, đã phải chịu lép mình dưới Trung Quốc để được nhận viện trợ quân sư và kinh tế trị giá hàng tỷ dollars. Dù vậy, họ đã không có những nhượng bộ đáng kể, ngoại trừ văn kiện của Phạm Văn Ðồng công nhận tuyên bố của Trung Quốc về lãnh hải năm 1958. Thậm chí sau đó, Ðảng CSVN đã có những thái độ e dè trước mưu đồ xâm lược của Trung Quốc. Năm 1966, khi chiến tranh Việt Nam lên cao điểm, Trung Quốc đã gửi hơn 130,000.00 quân đóng dọc theo biên giới phía Bắc để yễm trợ Hà Nội. Dù vậy, Hà Nội đã có những phản ứng khó hiểu làm Mao Trạch Ðông đã chỉ thị cho quân đội Trung Quốc "hạn chế các sự yễm trợ quá nhiệt tình có thể gây ra hiểu lầm từ phía Việt Nam".

Trong khi đang hết sức cần yễm trợ của Trung Quốc để răn đe Hoa Kỳ, thì tờ Nghiên Cứu Lịch Sử ấn hành tại Hà Nội năm 1965 lại được Ðảng cho phép đăng tải các bài ca ngợi cuộc chiến tranh giữ nước chống các triều đại xâm lăng Trung Quốc. Khi Hoa Kỳ gia tăng chiến dịch bỏ bom tại Hà Nội, nhiều tàu chiến Trung Quốc đã bị Hà Nội từ chối cho đậu ở các bến Cảng. Ðiều này đã làm Ðặng Tiểu Bình bực mình và đã hỏi thẳng Lê Duẩn khi Duẩn dừng lại Bắc Kinh hồi tháng 4 năm 1966 trong chuyến về khi tham dư Hội Nghị lần thứ 23 của đảng Cộng Sản Liên Xô. "Các đồng chí nghi ngờ nhiệt tình của chính phủ Trung Quốc hay sao? Tôi xin thưa với đồng chí là phía Trung Quốc không muốn kiểm soát chính phủ Việt Nam đâu.... Nếu chúng tôi có phạm một số nguyên tắc làm quý quốc nghi ngại thì cũng chỉ vì đồng chí Mao Trạch Ðông đã có cái nhìn xa...". Khi Hà Nội mở cuộc tổng tấn công Tết Mậu Thân hồi 1968 càng làm Mao Trạch Ðông khó chịu hơn nữa vì nó đi ngược lại chiến lược chủ trương chiến tranh "hạn chế" của Mao. Cuối năm 1969, Bắc Kinh đã tìm cách giãm thiểu viện trợ quân sự cho Hà Nội một cách đáng kể, chỉ có 139 ngàn khẩu súng trường, 119 triệu viên đạn, 1.36 triệu đạn đại bác cung cấp trong năm 1969 so với 219 ngàn khẩu súng, 247 triệu viên đạn và 2 triệu đạn đại bác đã được viện trợ trong năm 1968. Tháng 2 năm 1968 Trung Cộng tiến hành việc xây dựng con đường từ Yunnan đến Mường Sai thuộc phía Bắc Lào. Có hơn 20 ngàn người bao gồm công nhân, kỷ sư, quân bảo vệ và trang thiết bị quân sự để thực hiện công tác này. Sự hiện diện của quân Trung Quốc ở Bắc Lào đã tạo ra khó chịu từ phiá Hà Nội. Tháng 9 năm 1968, dưới áp lực của Hà Nội, Tổng Bí Thư Lào Kaysone Phomvihane đã yêu cầu Trung Quốc cho rút toàn bộ phái đoàn xây dựng này ra khỏi Lào. (Chen Jian - Involvement of China in Vietnam War)

Tháng 12 năm 1973 thấy nhu cầu cần khai thác các mỏ dầu. Hà Nội thông báo với Trung Quốc mong muốn mở các cuộc đàm phán để giải quyết các mâu thuẩn về đường biển. Tháng 8 năm 1974, đại diện cấp Thứ Trưởng Ngoại Giao hai nước đã họp ở Bắc Kinh. Cuộc thương thảo đi vào chổ bế tắc, phiá Việt Nam đòi phải chấp thuận biên giới theo Hiệp Ðịnh 1887 của Nhà Thanh. Trung Quốc từ chối, viện lý là đường ranh giới chia vùng biển thuộc vịnh Hải Nam chưa bao giờ hiện hữu trong hiệp đinh 1887. Vì vậy nếu Trung Quốc đồng ý đề nghị của Hà Nội thì khác nào nhượng bộ 2/3 vùng vịnh này cho phía Việt Nam. (Duiker, China and Viet Nam, pg 60-61)

Trong khi đó, thì dọc biên giới phía Bắc đã có những cuộc tranh chấp và đụng độ quân sự từ năm 1973. Năm 1974, theo Hà Nội đã có trạm chán quân sự tại cây số 179 biên giới phía Bắc, theo Trung Quốc thì đây là khu vực thuộc cây số 121. Tháng 3 năm 1975 Bắc Kinh yêu cầu mở cuộc đàm phán nhưng Hà Nội vì đang tiến hành kế hoạch xâm chiến miến Nam nên đã đề nghị để các viên chức tại địa phương giải quyết các xung đột trước. (Gilks, Breakdown of Sino-Vietnamese Alliance)

Tháng 9 năm 1975, Lê Duẩn chính thức thăm Bắc Kinh. Ðặng Tiểu Bình cho biết ông rất bực bội với không khí bài Hoa của các cơ quan ngôn luận tại Việt Nam. Năm 1976, Bắc Kinh thông báo ngừng viện trợ đồng thời giãm chi viện kế hoạch tài trợ 1976-1980 xuống 300 triệu mỗi năm thay vì 600 triệu như đã cam kết. Tháng 10, Lê Duẩn quay sang Liên Sô tìm đồng minh. Liên Sô đồng ý viện trợ 3 tỷ cho kế hoạch ngũ niên đồng thời ký với Hà Nội hiệp ược yễm trợ quân sự hổ tương Nga - Việt năm 1978. (Chanda, Brother Enemy, pg 28) Tháng 2 năm 1979, chiến tranh Hoa - Việt bùng nổ. Họ Ðặng quyết định tấn công qua biên giới phiá Bắc để dạy cho đảng CSVN một bài học. Quân Trung Quốc đã chiếm giữ hơn 8 cây số đất thuộc tỉnh Cao Bằng và Lạng Sơn. Mặc dù chính thức tuyên bố rút quân, và hai bên đã có những cuộc đàm phán về đường biên giới, Bắc Kinh vẫn còn chiếm giữ một số đất thuộc lãnh thổ Việt Nam. Các khu vực bị Trung Quốc chiếm này, theo Hiệp Ðịnh Về Biên Giới Phía Bắc ký hồi cuối năm 1999 coi như Hà Nội chính thức chấp nhận bị mất, trong đó bao gồm một phần đất thuộc tỉnh Lạng Sơn, và các khu vực có tính lịch sử như Thác Bản Giốc và Ải Nam Quan.

Câu hỏi đặt ra là tại sao đột nhiên tập đoàn lãnh đạo đảng CSVN lại chịu mất đi phần biên giới phía Bắc một cách nhục nhã như vậy? Tại sao các đời Tổng Bí Thư khác cũng ở thế yếu nhưng dám trái ý Thiên Triều mà đến đời Tổng bí thư Lê Khả Phiêu lại dâng đất? Tại sao ông Phiêu và lãnh đạo Ðảng các đời sau này không biết Ải Nam Quan đã từng là di tích lịch sử? Tại sao lãnh đạo đảng CSVN lại có thể đánh giá quá thấp lòng yêu nước và tự ái của dân tộc Việt Nam? Tại sao CSVN lại đồng ý rút lui các đòi hỏi về lãnh hải theo Hiệp Ðịnh nhà Thanh 1887 mà năm 1974 họ đã từng yêu cầu phía Trung Quốc phải chấp thuận. Tại sao Trung Quốc đã làm áp lực thế nào mà cả bộ máy lãnh đạo Ðảng CSVN đã phải cúi đầu ký nhận? Ðã có những nhượng bộ, đe dọa, đổi chác bí mật và bỉ ổi nào đằng sau các Hiệp Ðịnh trên không?

Nhiều năm đã trôi qua, về chính trị, một số biến cố lịch sử đã làm đảo lộn cán cân thế giới. Vị trí chiến lược và tầm ảnh hưởng quân sự của Trung - Việt cũng thay đổi. Liên Bang Sô Viết, chổ dựa vững chắc cho các lãnh đạo Ðảng CSVN đã và đang phải lo tự cứu lấy thân. Chủ nghĩa cộng sản bị hủy diệt ngay chính trên nơi sản sinh ra nó. Các nước xã hội chủ nghĩa như Trung Quốc và Việt Nam phải biến theo hướng thị trường chủ nghĩa để sống còn. Việt Nam mất hoàn toàn các thế lực yễm trợ từ quốc tế vô sản, nên phải dựa dẫm và thần phục đàn anh bá quyền Trung Quốc. Dù vậy, so với những năm chiến tranh, hiện tại Hà Nội cũng không đến nổi tệ, phải chịu nhục để mang tiếng bán nước cho ngoại bang. Việt Nam đã không cần phải ngữa tay xin viện trợ Trung Quốc nữa. Dù về mặt chính trị vẫn chịu ảnh hưởng nặng nề, nhưng ngược laị về kinh tế Việt Nam đã có những bước tiến bộ đáng kể. Chỉ riêng lực lượng người Việt hải ngoại, mỗi năm đã có hơn 8 tỷ dollars gửi về. Số tiền viện trợ không hoàn lại này thừa khả năng làm đòn bẩy nuôi sống bộ máy nhà nước và thúc đẩy nền kinh tế phi lao động tại Việt Nam vận chuyển nhịp nhàng.

Trong bối cảnh chính trị và kinh tế như vậy, việc các nhà lãnh đạo đảng CSVN cam tâm bán nước vẫn là một ẩn số?

10 comments:

  1. Dân Chủ Cho Quê Hương

    Nước Việt Nam từ ngày thống nhất
    Đảng cầm quyền lấy mất tự do
    Dân chủ chính là nỗi lo
    "Đảng ta" quả thật lo bò trắng răng
    Đảng lo sợ khả năng dân chủ
    Thời đa nguyên dẹp lũ bạo quyền
    "Độc tôn độc Đảng vi tiên
    Ta vơ đầy túi dân điên mặc tình"
    Ta phải chịu dân mình thua thiệt
    Kìa Đông Âu bị diệt lâu rồi
    Độc tôn cái lũ bọ giòi
    Tiêu ma đền tội dân vui reo mừng
    Khối cộng sản giờ chừng mấy nước
    Dân chủ giờ đây bước lên ngôi
    Vì quyền làm chủ ta đòi
    Quê hương đổi mới cuộc đời thêm tươi.
    Thái Dương - Sài Gòn 5/3/2009

    ReplyDelete
  2. Cuộc Chiến Tranh Biên Giới Việt - Trung

    30 năm đã qua. Năm nay, Bộ chính trị Hà Nội qua Ban Tuyên Huấn Trung Ương lệnh cho Bộ Máy Truyền Thông -- Báo, Đài, Vô Tuyến Truyền Hình -- không được nói gì đến cuộc Chiến Tranh Biên Giới Việt - Trung. Trong khi đó Trung Quốc để cho truyền thông của họ ở vùng Hoa Nam được viết bài kỷ niệm, tưởng nhớ những "Anh Hùng"(!) đã xả thân 30 năm trước.
    Nhưng lịch sử là lịch sử. Làm sao xoá bỏ lịch sử với biết bao dấu tích; làm sao xoá bỏ được sự tưởng niệm của nhân dân đối với hơn 40 ngàn liệt sỹ -- quân nhân và đồng bào các dân tộc -- đã nằm xuống trên Giải Đất Biên Cương những ngày đầu Xuân ấy.

    Xin ghi lại vài hồi tưởng cá nhân của tôi về những ngày sôi động xưa.
    Những ngày ấy tôi ở đâu. Tôi ở Pnom Pênh, một thành phố chết bắt đầu hồi sinh. Cùng một đơn vị Quân Khu IX từ Châu Đốc qua Takeo, chúng tôi một nhóm báo chí quân sự 6 người đến sân bay Pochentông / PnomPênh sáng 7/1/1979. Cả thủ đô vắng lặng. Tiếng súng lẻ loi của vài ổ đề kháng tuyệt vọng. Cỏ lút đầu người. 30 vạn dân thủ đô đã bị đuổi hết về nông thôn từ tháng 4/1975 khi quân Khme Đỏ vào. Phố không tên, nhà không số, đường không người, cuộc sống nông thôn không tiền nong, không chợ búa, không trường học, dân không giấy tuỳ thân, không dày dép, không gia đình, ngủ tập thể chia theo trai, gái, đội lao động.
    Sứ Quán Tàu rộng lớn nhất thủ đô, tài liệu vừa bị thiêu huỷ, còn một đống tro giữa đại sảnh trang hoàng một tranh hoành tráng ghi bài thơ Mao Trạch Đông: "Vầng Thái Dương Trên Châu Á". Vẫn còn sót tài liệu chỉ rõ 2 hôm trước, chỉ có 5 sứ quán: Bắc Hàn, Lào, Nam Tư, Rumani và Trung Quốc. Người Trung Quốc mới đây có gần 8 ngàn người rải khắp nước, cố vấn quân sự đông nhất, chuyên gia thuỷ lợi, lâm nghiệp, Tân Hoa Xã, có 3 ngàn quân thuộc đơn vị công binh vừa xây xong sân bay cực lớn, đường băng dài 3 ngàn mét ở Cong Pong Chnang. Các đoàn khách lớn đến gần đây là 3 đoàn quân sự, một đoàn do Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Giải Phóng Trung Quốc cầm đầu, 2 đoàn cấp cao nhà nước Tàu do Phó Tổng Lý (Thủ Tướng) Trần Vĩnh Quý và bà Đặng Dĩnh Siêu cầm đầu. Họ bỏ chạy hết sạch từ 5 ngày nay sang Thái Lan, nhưng vết tích còn đầy ra đó.
    Từ đó dễ hiểu rằng Tàu tất nhiên sẽ trả thù ta ở miền Bắc. Quả nhiên, đầu năm 1979, Đặng Tiểu Bình sang Mỹ, gặp Carter, huênh hoang báo sẽ cho "Việt Nam Tiểu Bá" một bài học, dám đi theo Đại Bá (Liên Xô) ăn hiếp nước nhỏ Cambốt, con nuôi của Trung Quốc.
    Có người hỏi: Ta có bị bất ngờ không. Tôi nhớ lại, có thể nói vừa có, vừa không. Có, vì tình hình biên giới đã căng, rất căng từ giữa năm 1978, khi Trung Quốc rút hết mọi chuyên gia, ngưng mọi viện trợ, căng thêm sau khi Việt Nam ký Hiệp Ước Hữu Nghị Tương Trợ với Liên Xô vào tháng 11. Cả tuyến biên giới đã báo động đỏ, việc đào hầm hố, công sự, huấn luyện, bổ sung quân số đạn dược được thúc đẩy khẩn trương. Nhưng vẫn bất ngờ, không biết ngày nào chúng khởi sự, và có dám khởi sự hay không vì Việt Nam đã gắn chặt với Nga Xô.
    Cũng do đó mà hơn 2 Quân Đoàn bảo vệ miền Bắc vẫn được đưa vào chiến trường Cam bốt; biên giới phía Bắc chỉ có toàn là chủ lực các Quân Khu, lực lượng tham chiến những ngày đầu chủ yếu là bộ đội địa phương 6 tỉnh và 26 huyện biên giới, cùng với bộ đội biên phòng (có hơn 20 Tiểu Đoàn) và một mạng lưới dân quân khá rộng và dày. Đây là một nét khá đặc sắc, vì từ xa xưa dân miền núi vốn có nếp tự trang bị súng từ thô sơ đến hiện đại để chống thú rừng, săn thú ăn thịt, bảo vệ nương rẫy. Các Quân Khu đã phát hàng vạn súng tốt rất rộng rãi cho dân quân các dân tộc Tày, Mường, Mèo, Thái ... từ mấy tháng trước.
    Ngày cuộc chiến nổ ra (17/2/1979), tôi đang ở Pnom Pênh, theo dõi sự kiện đoàn cấp cao Việt Nam sang dự lễ mừng chiến thắng, do Thủ Tướng Phạm Văn Đồng dẫn đầu. Sáng hôm ấy sỹ quan Việt Nam tập họp trong đại sảnh đại sứ quán Trung Quốc cũ để nghe ông Đồng nói chuyện. Ông Đồng đang nói thì tôi thấy Tướng Văn Tiến Dũng -- bộ trưởng Quốc Phòng, đưa lên một mảnh giấy, sau đó ông Đồng thông báo đêm qua Trung Quốc đã tiến công trên khắp tuyến biên giới 6 tỉnh. Trưa đó tôi nghe ông Đồng và ông Dũng bàn với nhau: Không thay đổi chương trình, vẫn giữ đúng kế hoạch, đi thăm Battambang, XiêmRiep, sáng 20 về Hà Nội. Trong những ngày ấy, cứ cách từ 2 đến 3 giờ, lại có mật điện của Tướng Lê Trọng Tấn và Tướng Hoàng Văn Thái báo cáo về tình hình chiến đấu ở biên giới.
    Giới báo chí có mặt ở Pnom Pênh náo nức hỏi đường về Sài Gòn ngay để trở ra Hà Nội rồi lao lên biên giới săn tin. Hai bạn thân của tôi là anh Takano, phóng viên Acahata Nhật Bản và phóng viên chụp ảnh Pháp Jean Claude Labbé nhanh nhẩu nhất. Thật đáng tiếc thương là Takano lên Lạng Sơn chạm trán quân Tàu trưa ngày 27/2 và bị chúng bắn chết ngay gần cầu Lạng Sơn. Anh luôn đeo kính cận, nói và viết tiếng Việt khá sõi, tốt nghiệp Khoa Văn trường đại học tổng hợp Hà Nội.
    Gặp tù binh Trung Quốc ở sân vận động Thái nguyên. 2/3/1979, nhóm phóng viên báo QĐND chúng tôi lên Thái Nguyên để gặp một số tù binh Trung Quốc. Trên đường lên Lạng Sơn và Thái Nguyên, từng đoàn dân quân, thanh niên, sinh viên của Hà Nội, Hà Đông, Sơn Tây vai khoác balô cùng xẻng cuốc nô nức đổ lên phía Bắc đào và dựng phòng tuyến chặn bọn xâm lược tiến về thủ đô. Tuần trước đài Nam Ninh / Quảng Tây huênh hoang đe doạ và huênh hoang: Quân Giải Phóng quyết tiến công chớp nhoáng, "sáng sớm ở Lạng Sơn, ăn cơm trưa tại Hà Nội" (!).
    Sau hơn 10 ngày chiến đấu, ta đã bắt được hơn 100 trăm tù binh. Có những tên Đại Đội Trưởng, Đại Đội Phó, Chính Trị Viên Đại Đội, Đảng Viên Cộng Sản.
    Hai ngày đêm ở Thái Nguyên, tôi hỏi chuyện được hơn 60 tên tù binh đủ loại, phần lớn thuộc Quân Khu Quảng Châu do Tướng Hứa Thế Hữu chỉ huy. Một số bị thương nhẹ, đã được phía ta chăm sóc.
    Sân vận động Thái Nguyên khá rộng, đủ chỗ cho hơn 80 tên ở trong hơn 20 phòng nhỏ, vốn là nơi tập luyện bóng chuyền, bóng rổ, võ thuật, nơi hội họp, nghỉ ngơi của vân động viên, nay được ngăn lại. Ở đây việc canh gác chúng được thuận lợi, chúng được tiêu chuẩn ăn như bộ đội ta, với bánh bao làm từ bột mỳ.
    Chỉ hỏi chuyện mươi tên, có thể thấy ngay cái ngây ngô của chúng, không hiểu đánh Việt Nam để làm gì, vì sao mà xuất quân. Chúng hiểu lơ mơ là Việt Nam không tốt, không biết ơn Trung Quốc; chúng mong chiến tranh kết thúc vì trên dặn: "Đây chỉ là cuộc xuất quân hạn chế trong thời gian, trong không gian". Chúng chỉ chuẩn bị được có hơn 10 ngày là đi, hành quân xuống phương Nam, nghỉ chân 5 hôm là khởi sự.
    Chúng sợ ngay từ khi nhập đất Việt vì phải dò mìn, vì lạ địa hình, không am hiểu gì ở phía trước. Chúng luôn bị bất ngờ, bị mìn, bị phục kích, bị bắn tỉa giữa rừng, khi dừng chân bên suối. Chúng hoang mang vì khi ở căn cứ chúng được giải thích sẽ có hàng trăm máy bay đủ loại mở đường, che chở, yểm trợ nhưng chẳng thấy một chiếc nào xuất hiện.
    Một tên lái xe tăng loại trung bình Bát-Nhất bị lật nhào bởi mìn, chân phải bị gãy phải nẹp và đi nạng, than vãn là xe tăng không thích hợp với địa hình rừng, đường độc đạo, lắm khe suối, không triển khai được đội hình, thường chỉ đi hàng dọc, dễ làm mồi cho bazôka đáng sợ!
    Khí hậu rừng nhiệt đới ẩm, mưa nhỏ đã làm nhão đất thành bùn, hầm hố khó đào cũng thành vấn đề khi chúng phải ngủ giữa rừng. Rồi việc ăn, ngủ, vệ sinh, tắm rửa trên đất địch, lạ lẫm, vắng lặng, đầy cạm bẫy thật không dẽ chịu chút nào. Một hai tên bị bắn chết hay bị thương là thường mất luôn một tiểu đội, phải cáng về phía sau với 2, 3 tên áp tải.
    Một viên Đại Đội Phó than vãn, anh ta ra trận, mẹ đang ốm, vợ mới sanh con gái được 2 tháng, quê ở tận Tứ Xuyên, từ Quân Khu Thành Đô xuống tăng cường cho Quân Khu Quảng Châu, không lòng dạ nào đi xa vào nơi nguy hiểm; luôn buồn bã, ỉu xìu, luôn mồm xin thuốc lá; kể lể mới vào trận có mươi hôm mà đứa nào cũng gầy xọm, sức yếu hẳn, nỗi lo sợ căng thẳng khôn nguôi, còn tăng thêm hằng ngày khi thấy "hoả lực các ông" tăng rõ, "chạm trán các ông" và bị pháo kích, phục kích nhiều hơn, quyết liệt hơn .... Mỗi ngày qua là cảm thấy thêm không có ngày về. Anh ta còn kiêm chức bí thư chi đoàn thanh niên cộng sản, cảm tình đảng, -- khi bị bắt còn trong túi áo cuốn Mao tuyển nhỏ bìa nylon đỏ chót. Anh ta không hề dở Mao tuyển ra, cũng không sinh hoạt chi đoàn, vì không biết nói gì với quân lính.
    Thật rõ ràng, trong cuộc tấn công xâm lược này, thiên thời, địa lợi, nhân hoà đều bất lợi cho Quân Tàu.
    Cũng không ngờ, Quân Giải phóng Tàu trình độ văn hoá rất tệ, trong 60 tên tôi gặp, không có một người nào tốt nghiệp trung học, không một người nào biết Bắc Kinh ra sao, chữ Hán tất cả đều nguệc ngoạc như gà bới, chỉ có 3 người võ vẽ biết tiếng Anh kiểu vỡ lòng, đọc vài chữ tiếng Anh theo giọng Hồ Nam, kể cả viên đại đội phó và trung đội trưởng lái xe tăng. Quân giải phóng hiện đại hoá năm 1979 mà chậm tiến như vậy đó.

    Tận Cùng Man Rợ.
    Chúng tôi lên Lạng Sơn ngày 8/3 khi được tin Bắc Kinh vừa ra lệnh rút quân gấp. Cầu Gãy. Sông Kỳ Cùng thuyền đồng bào đã nối nhau trở về cặp bến. Khói còn bốc lên từ nhiều đám cháy, lửa vừa được dập tắt; nhà ga đổ nát, tường sập từng mảng. Đường sắt đứt từng đoạn, cong queo. Chúng phá bằng mìn loại cực mạnh. 60 toa tầu và 2 đầu máy cũ tan tành. Các cơ quan hành chính đều bị phá sập. Giây điện bị cắt nát. Cửa hàng mậu dịch bị đốt cháy, cho đến trường trung học, vườn trẻ bên cơ quan hội phụ nữ, nhà mẫu giáo đều đổ nát không thể ở được. Chúng đốt cháy gần hết thư viện lớn.
    Những đồng bào đầu tiên trở về nhà đều buồn rầu đau xót trước cảnh tang thương đổ nát. Xưởng dệt thủ công thổ cẩm đặc sản Lạng Sơn bị chúng phá sạch banh, không còn một chiếc máy nguyên vẹn; xí nghiệp khâu cũng vậy. Một kiểu phá hoại triệt để, có hệ thống theo nghiêm lệnh, để triệt đường sinh hoạt lâu dài của người dân. Những chiếc thuyền gỗ bị đâm thủng, ván bị xẻ ra từng mảng nằm dọc bờ sông với lưới lớn nát bấy như bị băm nhỏ.
    Vào nhà dân khá giả gần khu chợ, tủ lim, bộ ghế salông cổ mặt đá bị đập nát, gương vỡ tan, mâm đồng bị đâm thủng, nồi to nồi bé bằng đồng, nhôm, sành, đất không còn một chiếc nào còn dùng được; cho đến chiếc xe nôi cho em bé cũng bị chặt gục xuống bên cống.
    Không thể nào tưởng tượng một đội quân chính quy của một Đảng Cộng Sản Lớn, tự nhận là "Vĩ Đại" lại có thể hành xử tàn bạo, độc ác, mang bản chất phá hoại phi nhân đến vậy. Quân Tàu Tưởng, Quân Phát Xít Nhật, Quân Thực Dân Pháp đều qua đây, nay là Quân Trung Cộng; và kỷ lục về giết dân thường, về tàn phá tràn lan, triệt để, thâm hiểm là thuộc về bọn lính Trung Cộng này đây.
    Những điều được trông thấy đã đủ để kinh hoàng. Còn những nơi tôi không được thấy, được ống kính xưởng phim quân đội ghi lại còn khủng khiếp gấp vạn lần. Đó là ở Bát Xát Lào Cai, một bà người Mông bị cả một tiểu đội 9 tên đưa vào hang đá thay nhau hãm hiếp rồi đâm chết trước mặt con trai bà bị trói chặt ở gốc cây khế ngoài cửa hang. Anh giả chết khi chúng bắn vào vai anh trước khi cùng nhau tháo chạy, anh vừa khóc vừa kể. Ở thôn Tông, huyện Hoà An Cao Bằng, chúng bị phục kích chết hơn chục tên, chúng uống rượu rồi tàn sát bằng dao, báng súng cả một xóm 43 người, có 21 phụ nữ và 20 em nhỏ, trong số phụ nữ có 7 người mang thai. Gần đó chúng giết người rồi ném 5 xác xuống giếng.
    Bộ mặt thú vật ấy của cái gọi là Quân Giải Phóng Trung Hoa làm sao có thể rửa sạch, phải được lưu truyền trong lịch sử loài người. Sao có thể cấm bà con ta ở 6 tỉnh biên giới không được tưởng niệm người thân đã oan khuất và cấm gia đình nạn nhân và đồng bào nguyền rủa quân sát nhân khốn nạn cùng quan thầy của bọn chúng!

    Một Mũi Tên Xuyên 5 Con Chim.
    Sau 30 năm, nhìn lại Chiến Tranh Biên Giới Việt - Trung vùng biên giới, với những tư liệu từ mọi phía được thu thập, có thể thấy Đặng Tiểu Bình thật thâm hiểm đến tột đỉnh.
    Nói thật gọn, đây là Một Viên Đạn Nhằm Bắn Xuyên Đến 5 Con Chim. 5 Mục Tiêu Chiến Lược ấy là:
    - Phạt Việt,
    - Khoe Mỹ,
    - Đe Xô,
    - Cứu Pôt,
    - Và cuối cùng là nhằm Hiện Đại Hoá 3 Quân -- Hải, Lục, Không Quân Trung Quốc.
    - Phạt Việt: Đòn trừng phạt không doạ nổi dân ta, chúng bị trừng phạt nặng; Bắc kinh thú nhận -- dưới xa sự thật, chết 6 ngàn tên, bị thương 21 ngàn, cộng là 27.000 thương vong trong số 23 vạn tên nhập Việt. Ngay phía sau là 22 vạn tên hỗ trợ, hậu cần và dự bị trên đất Tàu. Các Quân Đoàn Chủ Lực Việt Nam chưa vào trận, số lớn còn ở Cambốt. Nhóm lãnh đạo CS khiếp sợ và bị kẻ thù khuất phục cho đến nay vẫn còn sởn.
    - Khoe Mỹ: Đặng gặp Carter tháng 1/1979, báo trước sẽ đánh Việt Nam, Carter ngầm tán thành, thực tế là khuyến khích, ủng hộ bằng giữ bao vây, phong toả, cô lập Việt Nam; để bọn Pốt ở Liên Hợp Quốc.
    - Đe Xô: Liên Xô bất động, tuy có Hiệp Ước Đồng Minh Tương Trợ Xô - Việt tháng 11/1978.
    - Cứu Pốt: Đặng đã tạm cứu được bọn Khme Đỏ trong hơn 10 năm. Sau khi rút quân khỏi phía Bắc, Đặng tập trung sức vào yểm trợ bọn Pốt ở biên giới Thái lan - Cambốt, dùng cả giải đất Đông Nam Thái lan thành đất thánh cho quân Pốt, vận chuyển hàng triệu tấn vũ khí, trang bị, bom mìn, quân trang quân dụng, mở 12 doanh trại tuyển quân, luyện quân, 2 trường đào tạo sỹ quan, gài cố vấn Tàu vào 21 Sư Đoàn khơme đỏ (nâng từ 16 sư năm 1978), chúng càng đánh càng đông, mạnh, thiện chiến hơn, làm cho quân Việt Nam sa lầy, hao quân (chết hơn 50 ngàn, bị thương hơn 20 vạn / 10 năm), cuối cùng phải rút hết.
    - Hiện Đại Hoá 3 Quân (đặc biệt là tên lửa tầm trung và tầm xa, tàu ngầm nguyên tử, máy tính hoá quân đội): Chính việc kỷ luật, cảnh cáo Tướng Hứa Thế Hữu chỉ huy cánh trái Tập Đoàn Quân Nhập Việt vì để thương vong quá cao, và vị Tướng này kiểm điểm nêu hết nhược điểm lạc hậu, cổ lỗ, vũ khí quá cũ (không dám dùng không quân, tên lửa lạc hậu 2 thế hệ, lệnh xung phong cho bộ binh bằng kèn(!), 500 lính chết oan vì lựu đạn điếc, nổ sớm, súng cối vỡ nòng, đi lạc trong rừng, tự sát …. Giữa năm 1979 Đặng phác hoạ chương trình Hiện Đại Hoá Quân Đội gấp, tăng gấp 3 ngân sách quốc phòng, luôn lấy thất bại ở Việt Nam làm nỗi nhục dân tộc nước lớn …. Chương trình táo tợn ấy nêu rõ cả đóng Hàng Không Mẫu Hạm, một số tàu ngầm nguyên tử, một loạt tên lửa thế hệ mới, cơ giới hoá hàng Quân Đoàn hoàn chỉnh, bao gồm cả chinh phục vũ trụ với hàng loạt vệ tinh mới.
    Theo Di Huấn của Đặng, Giang Trạch Dân, rồi đến Hồ Cẩm Đào hiện nay đều đặt ưu tiên cho Hiện Đại Hoá Quốc Phòng, được phát động mạnh mẽ sau nỗi "Nhục" 2 tuần lễ 1 Tập Đoàn Quân Chính Quy bị giáng trả bởi những Lực Lượng Địa Phương trên Đất Việt, đúng 30 năm trước.
    Bùi Tín 4/3/2009

    ReplyDelete
  3. Nhục cho những kẻ chỉ biết nói mà ko có gan làm.
    Nhục cho bọn bán nước cầu vinh.
    Nhục cho bọn chối bỏ lịch sử, căm ghét cờ vàng.
    Nhục cho một dân tộc NGU SI ĐẦN ĐỘT.

    Tao nói 1 câu cho chúng mày nghe.
    HÃY Ở LẠI VÀ CHẾT ĐI NHỮNG THẰNG NGU.
    MỘT NGÀY NÀO ĐÓ, KHI TRUNG CỘNG THỰC SỰ Ở ĐÂY!
    CHÚNG MÀY SẼ NẾM MÙI NƯỚC MẤT NHÀ TAN.
    LÚC ĐÓ,

    CHÚNG MÀY CÓ RÊN, XIẾT!
    KHÔNG AI NGHE!
    CHÚNG MÀY CÓ THAN, OÁN!
    KHÔNG AI CỨU!
    CHÚNG MÀY CÓ KHÓC THAN!
    KHÔNG AI THƯƠNG!
    VÌ SAO?

    CHỈ VÌ CHÚNG MÀY NGU!

    ReplyDelete
  4. dkm thang cho kia

    ReplyDelete
  5. hô hô mong ai vô đây đừng chửi mấy bọn này là chó, chửi như thế là vô tình chúng ta sỉ nhục loài chó đó các bạn ạ. Mình ko chửi ai câu nào nha ^^

    ReplyDelete
  6. Tuổi trẻ Việt Nam hãy ghi nhớ trong lòng từng tấc đất thiêng liêng của Tổ Quốc. Ta thề đào mồ, diệt con cháu của những kẻ bán nước cầu vinh.
    Ta không quên, ta sẽ không bao giờ quên!
    Ta hận và sẽ có ngày ta rửa hận.

    Việt Nam ơi! Tương lai đất nước ra sao?

    ReplyDelete
  7. chán thật. Chả biết làm gì cho nước mình được

    ReplyDelete
  8. Ai bao Ai Nam Quan va Thac Ban Gioc bi mat? Cai dit me tui ban nuoc chung may noi thi 1 cau yeu nc, 2 cau yeu nuoc nhung cha pit cai dau lon gi. Ai Nam Quan gio la Huu Nghi quan o Lang Son, Thac Ban Gioc thuoc Trung Khanh, Cao Bang. Tour du lich Ha Noi - Cao Bang co diem den la Thac Ban Gioc. Ngu nhu cho ca lu. De may thang phan dong bit mom bit mieng. Cai loai cho chung may chi theo CHINA ma song thoi. Roi lam trau lam ngua cho chung no.Tao cung la sinh vien nhu chung may day nay, dung co noi Sinh vien yeu nuoc cho them nhuc. Ma ngoi nha may add tren kia chac deo j da la nha cua Can Bo. Ngheo nguoi ta ghet, Giau ng ta khinh. Chung may ghen ty ak! Chang chiu lam cu doi an. Dung la lu phan dong.Chung may cung chet di. Dung de nhung ng nhu tao phai giet khi gap mat!

    ReplyDelete
  9. HUYỀN TRÂN



    Huyền Trân! ... Công Chúa HuyềnTrân
    Hai châu Ô, Lý một thân liễu đào
    Mộng lòng gởi lại chiêm bao
    Ghé vai, nghĩa cả đi vào sử xanh
    Vì dân hơn vị chính mình
    Tình quê hương đặt trước tình tư riêng
    Phục thay một mảnh thuyền quyên
    Trái tim nhi nữ có nguyên sơn hà ...

    Gương xưa có thẹn không mà
    Sao nay ai cắt nước ra cống Tàu
    Để mà vàng bạc chia chau
    Quyền cao chức trọng cưỡi đầu muôn dân ?
    Giang sơn, từng tấc, từng phân
    Do bao xương máu góp phần ngàn xưa
    Đã không vun quén cõi bờ
    Còn đem đổi chác, bán mua cùng người !
    Sử xanh, tội ấy tầy trời
    Với dân, với nước, với đời xưa sau


    Nhìn sâu mọt, cõi lòng đau
    Hỡi ai xót nước xin mau giữ nhà ...
    Kẻo sau Quan-Giốc, Hoàng Sa
    Giặc dâng Tàu trọn sơn hà mất thôi !

    Huyền Trân ... Công Chúa ... nàng ơi ...
    Ngàn thu sách sử, bao người Huyền Trân !!!



    Ngô Minh Hằng

    ReplyDelete
  10. XIN HÃY VÌ VIỆT NAM YÊU DẤU

    (Xin nghiêng mình trước gương dũng cảm của Dân Oan các tỉnh trên toàn quốc Việt Nam đã và đang làm cuộc biểu tình lịch sử tại Sài gòn- Hà nội. Xin đồng bào Việt Nam tị nạn hải ngoại hãy vì tự do, dân chủ của quê hương của dân tộc Việt Nam mà bền lòng hỗ trợ cho cuộc đấu tranh chung. Thân mến gởi về quê hương và đồng bào Việt Nam, trong và ngoài nước, mọi tầng lớp, mọi lứa tuổi )

    Phải thế chứ, phải có ngày lịch sử
    Bởi hờn đau chất chứa tự lâu rồi
    Bởi căm phẫn đã sôi đầy núi lửa
    Đợi giờ thiêng đồng loạt nổ tung thôi !

    Thời điểm thiêng liêng giờ đây chói sáng
    Từng đoàn người mang thông điệp vùng lên
    Ngay giữa Sài Gòn, Bạc Liêu, Đồng Tháp
    Đứng dậy, hiên ngang đòi lại nhân quyền ...

    Ngọn sóng Tiền Giang reo trên đất nước
    Vẫy gọi Vũng Tàu, Bình Thuận, Đồng Nai
    Vẫy gọi Bình Dương, Trà Vinh, toàn quốc
    Chung dựng tuyến đầu, đòi lại đất đai

    Mảnh đất thân yêu bao đời gắn bó
    Đầy mồ hôi, đầy nước mắt, ân tình
    Nhưng tham ác, bọn tà quyền, giặc đỏ
    Cướp của dân làm tài sản riêng mình !!!

    Một sớm một chiều, người dân mất tất
    Hạnh phúc, tự do, nhà cửa, ruộng vườn
    Và từ đó, sống đời như thú vật
    Tăm tối, tủi hờn ngay giữa quê hương !

    Đến ong kiến nếu ai kia phá tổ
    Ong cũng châm và kiến cũng giơ càng
    Huống chi người, những năm dài cùng khổ
    Mất nước, tan nhà, uất hận, hờn oan ! ???

    Huống chi người, một giống nòi hào kiệt
    Có bốn nghìn năm bất khuất, kiêu hùng
    Có bậc anh thư, có người tiết liệt
    Có nỏ thần, kiếm báu, tấm gương trung ...

    Nên phải thế, phải một ngày vùng dậy
    Nối gót người xưa: cọc nhọn, tre ngà
    Ngày lịch sử bắt đầu, vui biê’t mâ’y …
    Hỡi đồng bào! ta giải cư’u quê ta !!!

    Xin nghiêng mình trước những lòng dũng cảm
    Trước những con tim chính trực, công bình
    Không ngại hiểm nguy, lưới giăng, bẫy cản
    Không sợ cùm gông, tù ngục, cực hình ...

    Hỡi toàn quốc, xin kiên cường tranh đấu
    Và bên ngoài xin hỗ trợ, đừng lơi
    Tất cả đó vì Việt Nam yêu dấu
    Vì lương tâm, vì nghĩa vụ làm người !!!


    Ngô Minh Hằng

    ReplyDelete